Đồng Cự tại Sửu Mùi có 2 tính chất: minh lãng / âm ám.
Cự Môn là sao thị phi khẩu thiệt, vì thế Thiên Đồng Cự Môn đồng cung không thể phát huy ưu điểm, chỉ nên theo những ngành nghề lấy khẩu tài làm chủ đích công việc, Nữ mệnh có thể làm giáo viên hóa trang, thợ uốn tóc, cắm hoa, nấu ăn, tức dùng miệng để truyền thụ một loại học vấn về hưởng thụ. Nếu theo những ngành nghề khác, cuộc đời dễ chiêu khẩu thiệt thị phi.
Đồng Cự cần phải hội Xương Khúc hoặc Khôi Việt, hoặc Phụ Bật.
Mệnh có Tả Hữu giáp đồng thời Khôi Việt hội chiếu: có thể phú quý.nên làm công chức giáo chức, hoặc tại đại xí nghiệp, Ngành dịch vụ. cũng có thể làm quảng cáo, truyền bá …. Duy thiếu niên khó tránh ghập ghềnh, cuộc đời khó khỏi tân lao, cần phấn đấu sau mới được thành tựu.
Đồng Cự tọa mệnh, có một cách cục đặc thù,
người tuổi Đinh tại Mùi, Địa kiếp đồng cung Kình (Kình và Địa kiếp đồng cung hoặc hội chiếu). Do ở Tài bạch cung vô chánh diệu, mượn Dương Lương của đối cung, vì vậy toàn bộ kết cấu tinh hệ, liền biến thành là Đồng Cự hội hiệp [Dương Lương, Cơ, Kình, Kiếp]: làm mạnh thêm sắc thái thị phi khẩu thiệt, nhưng đồng thời cũng làm mạnh thêm tính chất phục vụ công chúng, vì thế rất nên theo các ngành dịch vụ, công tác xã hội,giáo dục, truyền bá, có thể thành nhân vật lĩnh đạo. Nếu mệnh cung có đào hoa hoặc văn diệu, có thể theo nghề âm nhạc biểu diễn, hoặc thành danh trong giới văn hóa.
Ngoài cách cục này ra còn có một đại cách.
mệnh ở Mùi cung vô chánh diệu,mượn Đồng Cự ở Sửu cung để dùng, gọi là [minh châu xuất hải cách] (như Sửu cung vô chánh diệu mượn Đồng Cự của Mùi cung không nhập cách này). Cổ nhân ghi nhận là [minh châu xuất hải, tài quan song mỹ]. tinh diệu cung này đắc Nhật Nguyệt hội chiếu, lại có Thiên lương ảnh hưởng tính chất của Cự môn, đem thị phi khẩu thiệt tranh tụng chuyển hóa thành nghiên cứu sâu về học thuật,đem tính chất sao này xử dụng đúng chỗ, làm hiển đạt danh dự, được người tán tụng. (Tham thảo vấn đề học thuật kỳ thật cũng là khẩu thiệt và tranh tụng, cổ nhân gọi là tự tụng, do lúc phải thâm nhập nghiên cứu một môn học vấn, tất phải đem cái tôi hôm nay và cái tôi hôm qua cọ sát nhau, rồi sau học vấn mới tiến bộ). Giả như [minh châu xuất hải cách] lại thấy thêm Phụ Bật giáp sửu cung hoặc mùi cung, gặp Xương Khúc, Khôi Việt cách cục càng đẹp, người tuổi Ất Đinh Tân Quý càng tốt, cục diện sự nghiệp hết sức lớn lao.
Đồng hóa Lộc(tuổi Bính) tăng gia hưởng thụ (hội Cơ hóa Quyền).
Cự hóa Lộc (tuổi Tân) tăng gia thu nhập (tất Nhật hóa Quyền hội Lộc tồn).
Đồng hóa Quyền (tuổi Đinh) tất Cự hóa Kị và Cơ hóa Khoa, tuy tình trạng hôn nhân được cải thiện, nam chủ được vợ hiền mỹ, nữ chủ chồng tài cán (Âm hóa Lộc tại Phối), nhưng tự mình lại nhiều khẩu thiệt thị phi.
Cự hóa Quyền (tuổi Quí) (hội Kình Đà) gia tăng lực thuyết phục, và tính chất thị phi khẩu thiệt bị triệt tiêu. Như thuộc [minh châu xuất hải cách] mà Cự hóa Quyền, là bậc thầy về nghi lễ hoặc chuyên viên pháp luật, nên phát biểu ý kiến của công chúng.
Đồng hóa Kị (tuổi Canh) tăng gia gian khổ.(vì hội Kình Đà).
Đồng Cự tọa 2 cung Sửu Mùi / tam hiệp cung Thiên cơ độc tọa / cùng tá tinh an cung Dương Lương.
suy đoán bản chất của Đồng Cự, phải chú ý sắc thái tình cảm của tinh hệ này là minh lãng hoặc âm ám,vì Cự Môn là ám diệu, Thiên Đồng là sao tình tự, hai sao đồng cung, tức thành tình tự hoặc tình cảm âm ám lộ rõ, xác định bản chất phải chú ý mức độ âm ám.
Đồng Cự ở Sửu, mượn Dương Lương ở Mão nhập vào Dậu cung, do quang huy của Thái dương ở Mão cung, liền giảm âm ám của Đồng Cự.
Nếu Đồng Cự ở Mùi, mượn Dương Lương của Dậu cung hội chiếu, do Thái dương ở Dậu cung đã thuộc Nhật lạc tây san, quang nhiệt không đủ, lực lượng giải ám không bằng Dương Lương của Mão cung.
Nếu mệnh ở Mùi vô chánh diệu, mượn sửu cung Đồng Cự an tinh, được Dương Lương của Mão cung, Thái âm của Hợi cung hội chiếu.Thái dương của Mão cung là [nhật chiếu lôi môn], Thái âm của Hợi cung là[nguyệt lãng thiên môn], do đó đều có thể giải âm ám của Đồng Cự, thậm chí có thể biến nó thành minh lãng. là lí do cổ nhân gọi đây là [minh châu xuất hải cách].
mệnh Sửu mượn Mùi Đồng Cự,không thuộc [minh châu xuất hải cách],
Từ bổn thân Đồng Cự mà xét,
Đồng hóa Kị, Cự hóa Kị: đều làm gia tăng âm ám, đây là cách cục thấp.
Đồng hóa Lộc, hóa Quyền, có thể giảm thiểu âm ám của Đồng Cự.
Cự cát hóa, Đặc biệt phải trải qua ba chiết rồi sau tay trắng dựng nghiệp, (không bằng được cái tốt của Đồng cát hóa)
Đồng Cự minh lãng, tương đối không sợ Sát diệu,
Đồng Cự âm ám,sợ Sát diệu cùng hội.
Đối với Xương Khúc cũng thế, Đồng Cự âm ám giả như thấy thêm Khúc hóa Kị, Xương hóa Kị: ắt cảm tình khốn nhiễu càng lớn, không đủ những quan hệ giao tiếp bên ngoài, đặc biệt là tình cảm nam nữ khốn nhiễu, có thể thống khổ trong lòng.
vì vậy có thể nói, Đồng Cự cách cục cao hay thấp, phải lấy miếu hãm của Thái dương mà định, kế đó phải xem tứ hóa của Đồng Cự.
Sự nghiệp cung Thiên cơ,
Cơ hóa Kị (tuổi Mậu): ắt gia tăng ảnh hưởng âm ám, lúc này khiến cho Đồng Cự phát triển thành nội tâm lo lắng bất ổn,đưa đến kế hoạch sai lầm, đây cũng là biểu hiện của âm ám lộ rõ.
Trong tổ tinh hệ thứ nhất (tức tinh bàn cơ bản của Tử vi tại tí ngọ), Đồng Cự của hai cung sửu mùi thuộc về nhược cách, tức tiên thiên đã không bằng tinh hệ khác, để có thể thành thượng cách [minh châu xuất hải cách] tá tinh an cung thuộc ngoại lệ), tuy kiến cát hóa, hoặc Thái dương tại mão cung chiếu hội, cuộc đời tất có sự đáng tiếc. vì thế cách cục này, đối với Sát Kị Hình diệu đặc biệt mẫn cảm.
rất không thích đồng cung với Kình,hội chiếu cũng không tốt, nếu lại cùng đồng độ với Khúc hóa Kị, Xương hóa Kị, âm sát, thiên hư, kiếp sát, dễ bị người âm ức chế.
Tại tình hình này, dù Cự hóa Lộc cũng chủ tinh thần ‘hư không’, dù Đồng hóa Lộc cũng chủ cuộc sống có khi vô nghĩa (cảm giác mình không bằng người) (ví như rõ ràng có thể có việc làm ăn, đột nhiên có người đoạt mất).
Đồng Cự kiến tứ Sát, Kị, Hình:đương nhiên khốn nhiễu, Đồng Cự hội Lộc, Quyền, Khoa, và không thấy các sao Sát Kị Hình Hao, mới có thể thành cấu trúc tốt hơn.
lưu niên vận hạn cùng thấy Lộc, Quyền, Khoa.
Kết cấu minh lãng,hoặc âm ám (nhẹ) của Đồng Cự, thích chuyển đến
Ví dụ như cung Vũ Tướng, có thể cấu thành tổ hiệp Liêm hóa Lộc, Phá hóa Quyền, Vũ hóa Khoa,[Phá quân độc tọa, có thể hóa quyền cùng với vũ khúc hóa khoa củng chiếu]. Phàm loại tinh hệ này kiến cát hóa, đều là chỗ Đồng Cự thích đến, nếu không thấy Sát Kị đồng thời đến hội: có thể hứa là giai vận, duy giai vận một khi qua đi, phải phòng âm ám theo sau.
Duy tinh hệ thuật ở trên, vẫn không tốt bằng Dương Lương tại mão cung hóa Lộc Quyền Khoa, nếu không kiến Sát, ắt âm khí của Cự môn mất hết, thành là giai vận. vì thế Đồng Cự tối hỉ đến vận hạn Dương Lương.
Đồng Cự Âm ám lộ rõ mạnh, ngay cả khi đến cung thuật ở trên, tinh hệ đã cát hóa, cơ hội cũng không toàn mỹ, hoặc tinh thần hư không, hoặc sanh hoạt tinh thần bị bỏ phế, nhưng sanh hoạt vật chất cảm thấy mệt mỏi. nếu lại thấy sát diệu và cát diệu đồng độ: càng dễ cảm thấy áp lực, hoặc nội tâm nhiều thống khổ.
lưu niên vận hạn có Sát Kị tụ hội:
Đồng Cự Âm ám nặng: thậm chí có thể bị người uy hiếp. Nếu lại gặp [Dương Lương] hóa Kị, kiến Hình, Kình: là bị nghiện ngập (ma túy).
Đồng Cự Minh lãng: tuy không chủ bị người uy hiếp, cũng chủ tình tự không cân bằng, tình cảm bị thương tổn.
Phàm Đồng Cự đều không thích đến cung:
– Khúc hóa Kị, Xương hóa Kị. Vô luận là đại hạn hoặc lưu niên, đều là phá tài tổn thất, bị người dìm xuống,hoặc gặp tật bệnh, hoặc thấy tang tóc đến với mình.
– [Dương Lương] hóa Kị, dễ sinh thị phi khẩu thiệt, kiến Hình diệu: có oan ngục, nhẹ thì bị người phỉ báng, hoặc bị người đem trách nhiệm đẩy qua cho mình, cũng chủ xuất hiện tình cảm ám muội, tình không được đáp lại, yêu đơn phương, đưa đến nội tâm thống khổ.
**một thí dụ Đồng Cự tại [phụ mẫu cung]**
người tuổi Bính, phụ mẫu cung Đồng Cự tại Mùi, Đồng hóa lộc, hội đối cung Xương Khúc, (Xương hóa Khoa).
Tổ tinh hệ này tuy kiến cát hóa, Mão cung vô chánh diệu, mượn Dương Lương của Dậu cung an tinh, Thái dương của cung Dậu quang độ không đủ, do vậy Đồng Cự của phụ mẫu cung tuy kiến cát hóa, vẫn còn âm ám lộ rõ.
Đến đại hạn Đinh Dậu,
Dương Lương thủ mệnh, tá hội [Đồng Cự], mà Cự hóa Kị,là mầm mống thị phi hình kị. Đại hạn phụ mẫu cung Thất sát tại Tuất cung độc tọa, bị Liêm Phủ của nguyên cục chiếu xạ, mà Liêm hóa kị, lại có Đà la của nguyên cục chiếu hội. vì thế, liền chủ có xung đột tình cảm với [phụ mẫu].
phụ mẫu cung của Mệnh bàn, thường dung để suy đoán quan hệ của mình với người trên, đại hạn đinh dậu cung phụ mẫu phát sanh tình huống, cũng nên dùng suy đoán cấp trên chớ không phải phụ mẫu.
năm Đinh mùi,
mệnh niên Đồng Cự, Cự tái hóa Kị, lưu niên phụ mẫu cung Vũ Tướng, bị Cự hóa Kị(hai lần) và Thiên lương giáp,thành [Hình Kị giáp Ấn] tình huống nghiêm trọng, lại hội Liêm hóa kị, kết quả tất nhiên hội do[tâm bệnh] mà đưa đến bất hòa với cấp trên, tâm lý bị uy hiếp, gia thêm (hai) Kình nhập vào lưu niên mệnh cung, cuối cùng đưa đến quan hệ tình cảm cực xấu.
Như quả nguyên lai Đồng Cự của phụ mẫu cung thêm âm ám(không thấy cát hóa), tình hình càng thêm đáng ngại, có thể bị cấp trên hãm hại. Nếu như quả nguyên cục phụ mẫu cung không hội chiếu Thái dương của Dậu cung, mà là hội chiếu Thái dương của Mão cung, Tình hình sẽ được tốt hơn, đại hạn lưu niên phụ mẫu cung mặc dù tính chất tương tự, áp lực sẽ nhỏ hơn.
(Dẫn theo blog Trần Nhật Thành)
Chủ đề: THIÊN ĐỒNG – CỰ MÔN tại Sửu Mùi
Biên tập / Tác giả: Hoc.Kabala.vn